Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Nguyên nhân khiến men gan tăng

Nguyên nhân khiến men gan tăng


+ GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ GAN VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN:

Có nhiều loại bệnh gan khác nhau. Nhưng bất kể bạn bị loại bệnh nào thì tổn thương trên gan của bạn dường như đều diễn tiến theo cùng một cách giống nhau.

Gan của bạn có thể bị nhiễm virus, bị tổn thương bởi hóa chất, bị tấn công bởi chính hệ miễn dịch của cơ thể bạn, nhưng ngu y hiểm cơ bản trong những trường hợp này là giống nhau – đó là gan sẽ bị hủy hoại đến mức nó không còn có thể làm việc để giúp bạn sống được.

Một lá gan mạnh khỏe

Gan giúp cơ thể chiến đấu chống lại nhiễm trùng và làm sạch máu. Nó còn giúp tiêu hóa thức ăn, dự trữ năng lượng để cơ thể sử dụng khi cần. Một lá gan mạnh khỏe có một khả năng đáng kinh ngạc là có thể phát triển trở lại, hoặc hồi phục, khi nó bị tổn thương. Bất kể những thứ gì ngăn không cho gan thực hiện chức năng của mình – hoặc hồi phục trở lại sau khi bị tổn thương – đều đặt mạng sống chủ nhân của nó vào vòng nguy hiểm.

Viêm gan c

Trong giai đoạn sớm của bệnh gan, gan có thể bị viêm. Nó có thể đau và lớn ra. Hiện tượng viêm chứng tỏ cơ thể đang cố gắng chiến đấu chống lại nhiễm trùng hoặc làm lành một tổn thương nào đó. Nhưng nếu hiện tượng viêm diễn ra liên tục, nó có thể bắt đầu làm tổn thương gan vĩnh viễn.

Trong khi hầu hết các bộ phận khác của cơ thể nếu bị viêm thì bạn đều có thể cảm nhận được – khu vực bị viêm sẽ trở nên nóng và đau. Nhưng khi gan bị viêm, có thể nó sẽ không gây cho bạn bất kỳ một sự khó chịu nào cả.

Nếu bệnh gan được chẩn đoán và điều trị thành công ở giai đoạn này, quá trình viêm có thể biến mất

Xơ hóa

Nếu không được điều trị, gan bị viêm bắt đầu hóa sẹo. Khi mô sẹo phát triển quá mức nó sẽ thay thế dần mô gan bình thường. Quá trình này được gọi là quá trình xơ hóa (mô sẹo chính là một loại mô xơ).

Mô sẹo không thể thực hiện những chức năng mà mô gan bình thường có thể làm. Ngoài ra, mô sẹo còn ngăn không cho máu chảy xuyên qua gan. Khi mô sẹo xuất hiện bên trong gan nhiều hơn, gan có thể sẽ không hoạt động tốt như trước được nữa. Hoặc phần mô gan bình thường sẽ phải làm việc cật lực hơn để thay thế cho phần bị hóa sẹo.

Nếu bệnh được chẩn đoán và điều trị thành công trong giai đoạn này, vẫn còn cơ hội gan có thể lành trở lại bình thường theo thời gian.

Xơ gan

Nếu vẫn không được điều trị, gan sẽ bị sẹo hóa nghiêm trọng và không còn có thể tự lành lại được. Giai đoạn này – khi tổn thương không còn có thể hồi phục lại được – gọi là xơ gan.

Xơ gan có thể dẫn đến nhiều biến chứng khác nhau, bao gồm cả ung thư gan. Ở một số người, những triệu chứng xơ gan có thể là dấu hiệu đầu tiên giúp họ phát hiện ra mình bị bệnh gan.

* Bạn sẽ trở nên dễ bị chảy máu hoặc thâm tím.
* Dịch sẽ tích tụ lại ở chân và/hoặc ở bụng.
* Da và mắt sẽ có màu vàng
* Ngứa da dữ dội
* Bên trong lòng các mạch máu dẫn đến gan, máu có thể chảy ngược trở lại do bị tắc nghẽn. Những mạch máu này có thể bị vỡ.
* Bạn sẽ trở nên nhạy cảm hơn với các loại thuốc và tác dụng phụ của chúng.
* Bạn có thể bị đái tháo đường kháng insulin và đái tháo đường type 2.
* Chất độc có thể tích tụ bên trong não, gây ra những vấn đề về sự tập trung, trí nhớ, giấc ngủ và những chức năng tâm thần khác.

Một khi bạn đã được chẩn đoán là xơ gan thì mọi việc điều trị đều nhằm vào hướng ngăn không cho tình trạng của bạn trở nên xấu hơn. Cũng có thể làm ngừng hoặc làm chậm lại tổn thương gan. Ngoài ra việc bảo vệ phần nhu mô gan bình thường còn lại cũng quan trọng.

Suy gan là tình trạng gan đang hoặc đã mất toàn bộ chức năng của nó. Đây là một tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và cần phải được cấp cứu.
Triệu chứng đầu tiên của suy gan thường là buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi, và tiêu chảy. Do những triệu chứng trên có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau nên có thể khó mà khẳng định được gan có bị suy hay không.
Nhưng khi quá trình suy gan diễn tiến nặng hơn, những triệu chứng trên sẽ trở nên nặng hơn. Bệnh nhân có thể trở nên lú lẫn, mất phương hướng và cực kỳ buồn ngủ. Có thể có nguy cơ hôn mê và tử vong. Bệnh nhân cần phải được điều trị ngay lập tức. Các bác sĩ sẽ cố gắng cứu được bất cứ phần gan nào vẫn còn hoạt động. Nếu không thể được thì lựa chọn duy nhất sẽ là ghép gan.
Nếu suy gan là hậu quả của xơ gan thì thường có nghĩa là gan đã suy dần dần từ một khoảng thời gian trước rồi, có thể là hằng năm. Tình trạng này được gọi là suy gan mạn tính.
Suy gan mạn tính cũng có thể là nguyên nhân của tình trạng dinh dưỡng kém. Hiếm gặp hơn, suy gan có thể xảy ra một cách đột ngột, vào khoảng 48 giờ. Tình trạng này được gọi là suy gan cấp tính và thường là do phản ứng với chất độc hoặc dùng thuốc quá liều.

Xơ gan, ung thư gan, và suy gan là những tình trạng bệnh nghiêm trọng có thể gây đe dọa mạng sống của bạn.

Một khi bệnh gan của bạn đã đến những giai đoạn kể trên thì số lượng những phương pháp có thể điều trị được là rất giới hạn.
Đó là lý do vì sao cần phải phát hiện ra bệnh gan sớm, trong giai đoạn viêm hoặc xơ hóa. Nếu bạn được điều trị thành công ở những giai đoạn này, gan sẽ có cơ hội tự lành và tự hồi phục.

Hãy nói chuyện với bác sĩ về bệnh gan của bạn. Xác định xem mình có thuộc diện nguy cơ hay không hoặc có nên đi xét nghiệm hay chích ngừa không.

(NGUỒN: Theo Y học NET/ American Liver Foundatio)

PHẦN 1. Nguyên nhân gây nên bệnh viêm gan  Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc men gan tăng cao nhưng trong đó viêm gan là nguyên nhân chính. Nồng độ của men gan tăng thường tỷ lệ thuận với mức độ viêm nhiễm của gan. Tuy nhiên, đó mới là những gợi ý thông thường nhất bởi trong thực tế có những trường hợp viêm gan rất nặng nhưng nồng độ men gan trong máu tăng rất ít.

Men gan tăng chứng tỏ sự trục trặc ở gan hoặc mật.

Men gan tăng, cảnh báo bệnh gì? Men gan nằm trong tế bào gan và chúng tham gia vào các quá trình chuyển hoá quan trọng các chất trong cơ thể. Vì vậy, men gan có một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Khi men gan bị rối loạn, nhất là men gan tăng cao, phải hết sức lưu ý tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp xử trí thích hợp. Trong một số trường hợp khác việc gia tăng nồng độ men gan lại không liên quan gì đến gan. Tuy vậy, nói một cách chung nhất thì sự thay đổi men gan là những dấu hiệu hữu ích trong chẩn đoán bệnh. Một số nguyên nhân hay gặp làm tăng nồng độ men gan bao gồm những nguyên nhân tại gan và nguyên nhân ngoài gan như: – Viêm gan cấp do bất kể nguyên nhân gì đều làm men gan tăng đặc biệt là tăng rất cao, gấp 7-8 lần trở lên. – Viêm gan mạn tiên triển, viêm gan dẫn đến xơ gan do rượu, chất độc, thiểu dưỡng, ung thư gan. – Tắc đường mật do giun, sỏi; viêm tụy, tắc ruột, viêm dạ dày cấp… cũng làm tăng men gan nhưng mức độ tăng không nhiều như trong viêm gan.

– Các bệnh truyễn nhiễm như sốt rét, sởi, sốt xuất huyết, nhiễm trùng máu… trong giai đoạn toàn phát cũng làm tăng men gan. Ngoài ra còn rất nhiều bệnh mạn tính khác hay do điều trị thuốc, chế độ ăn uống không điều độ, uống nhiều bia rượu cũng làm thay đổi men gan so với bình thường. Khi đã biết mình bị tăng men gan, bạn nên giữ gìn sức khoẻ, tránh làm việc quá sức và bước kế tiếp là phải đi khám bác sĩ chuyên khoa về bệnh gan mật để được xác định rõ bệnh và điều trị kịp thời, tránh được sớm những biến chứng, đặc biệt là bệnh viêm gan siêu vi trùng  B.

Khi phát hiện thấy men gan tăng cao thì cần phải theo dõi thường xuyên xem số lượng có thay đổi không và cũng nên làm siêu âm định lượng gan để biết được tình trạng của gan, ống dẫn mật. Trong trường hợp phát hiện tình trạng GGT tăng cao thì điều cần thiết là phải ngưng ngay việc uống rượu, bia và các loại nước uống có chất cồn, không hút thuốc lá, nếu xảy ra ở những người có tình trạng thừa cân béo phì thì nên kiêng cữ các thức ăn nhiều dầu mỡ, chiên xào, nên dùng chế độ ăn bổ dưỡng nhiều chất đạm. Trong trường hợp cần thiết phải dùng thuốc, để điều trị một số bệnh lý khác thì cần phải báo cho bác sĩ biết, mình đang có tình trạng tăng men gan, để tránh dùng những thuốc có hại cho gan.

Bạn cần chú ý rượu là thức uống làm gan nhiễm độc (khi uống rượu, gan phải làm việc nhiều hơn để thải chất độc). Tóm lại, ở những người có chỉ số men gan tăng cao thì nên gặp bác sĩ chuyên khoa để sớm được điều trị, theo dõi và xét nghiệm định kỳ vì nếu tình trạng này xảy ra kéo dài mà không điều trị sẽ rất dễ xảy ra các biến chứng như xơ gan… (diendan.phununet.com) BÀI 1. Nguyên nhân làm tăng men gan- PHẦN 2. Bất kỳ người bình thường nào cũng có men gan. Men gan có 4 loại, đó là AST (aspartate transaminase) hoặc còn được gọi là SGOT (serum glutamic oxaloacetic transaminase). Loại thứ 2 là ALT (alanin transaminase) hay còn gọi là SGPT (serum glutamic pyruvic transaminase), hai loại này có trong tế bào gan. Khi gan bị viêm hoặc bị tổn thương thì hai loại men gan này bị rò rỉ vào dòng máu làm cho chỉ số men gan tăng. Loại men gan thứ 3 là alkalin phosphatase có trong màng tế bào gan và loại thứ 4 là GGT (gamma glutamyl transpeptidase) có trong thành của tế bào ống mật.

Ở người bình thường, hai loại men gan SGPT và SGOT do tế bào gan sản sinh ra và chúng có hàm lượng cố định trong máu khoảng dưới 40U/l huyết thanh. Qua các nghiên cứu, người ta rút ra rằng khi men gan tăng từ 1 – 2 lần là ở mức độ nhẹ, tăng từ trên 2 tới 5 lần là mức độ trung bình và tăng trên 5 lần là ở mức độ nặng.

Tỷ lệ ALT và AST có thể mang lại thông tin có giá trị về mức độ và nguyên nhân đối với bệnh của gan. Hầu hết bệnh về gan thì ALT (SGPT) cao hơn AST (SGOT) nhưng trong bệnh xơ gan và nghiện rượu thì mức tăng AST cao hơn ALT (thường tỷ lệ này là 2:1). Khi gan bị viêm hoặc chấn thương vì bất kỳ một lý do nào đó hoặc do tổn thương ở đường dẫn mật làm ứ trệ sự lưu thông của dịch mật thì tế bào gan sẽ gia tăng sản sinh và bài tiết men gan. Sự gia tăng men gan nổi trội nhất là viêm gan cấp tính đặc biệt là viêm gan cấp do siêu vi.

Trong viêm gan cấp tính do siêu vi, có khi men gan tăng gấp từ 10 – 20 lần. Đối với viêm gan mạn tính thể tiến triển hoặc xơ gan hoặc viêm gan tự miễn thì men gan cũng có thể gia tăng. Đây cũng là một trong các tiêu chuẩn để đánh giá là viêm gan mạn tính tiến triển hay người lành mang virut viêm gan. Các nguyên nhân khác làm tổn thương tế bào gan như rượu (đặc biệt là trong các trường hợp nghiện rượu), sốt rét, ung thư gan, ngộ độc hoá chất cũng làm cho men gan gia tăng một cách đáng kể. Bệnh về đường mật cũng có liên quan mật thiết với gan, nhất là các bệnh do sỏi đường dẫn mật, giun chui ống mật, viêm đường mật.

Các nguyên nhân này thường làm cho đường dẫn mật phù nề hoặc tắc nghẽn dịch mật khó lưu thông tác động đến tế bào gan và vì vậy làm cho men gan gia tăng. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có một số nguyên nhân ngoài gan như các bệnh nhiễm khuẩn nặng (bệnh sởi, Rubella, nhiễm khuẩn huyết) hoặc một số thuốc cũng có thể làm gia tăng men gan. Đối với thuốc, có một số có tác động rất lớn đến gan, thậm chí gây độc cho gan, điển hình nhất là một số thuốc chống vi khuẩn lao (INH, rifamixin…), thuốc thuộc nhóm fluoquinolon (ciprofloxacin), acetaminophen (paracetamol, tydol, efferalgan…). Khi ngộ độc do thuốc cũng có thể làm men gan gia tăng. Tuy vậy, trong một số trường hợp, mặc dù men gan tăng nhưng không phải từ gan mà bởi các lý do khác, ví dụ hoạt động thể lực mạnh, vì vậy, nên giảm bớt sự vận động của các cơ . Vì vậy trong thực tế, người ta thấy rằng khi xét nghiệm máu thấy men gan tăng, nhất là trường hợp men gan tăng cao là cần phải xem xét, cân nhắc kỹ càng hơn và đặc biệt lưu ý đến gan, mật.
(theo suckhoedoisong.vn)

BÀI 2. CÁCH ĐÁNH GIÁ MỘT NGƯỜI KHỎE MẠNH CÓ MEN GAN BẤT THƯỜNG Cách đánh giá một người khỏe mạnh có men gan bất thường còn tùy thuộc vào từng người. Bác sĩ có thể sẽ hỏi những kết quả xét nghiệm máu cũ để so sánh. Nếu không có, bác sĩ có thể sẽ cho làm lại xét nghiệm máu trong vài tuần hoặc vài tháng sau để xem những bất thường trên có còn tồn tại hay không. Bác sĩ sẽ tìm những yếu tố nguy cơ của viêm gan B và C, bao gồm tiếp xúc do quan hệ tình dục, những lần truyền máu, dùng thuốc qua đường tiêm, tiếp xúc nghề nghiệp với những sản phẩm của máu. Bác sĩ cũng có thể sẽ hỏi tiền sử gia đình về bệnh gan để kiểm tra khả năng bệnh nhân bị những bệnh di truyền như đái tháo đồng đen, bệnh Wilson, hoặc thiếu men alpha-1-antitrypsin.Cũng cần phải xem lại danh sách tất cả các loại thuốc mà bệnh nhân đang dùng thường xuyên bao gồm cả những thuốc thông thường không cần kê toa.

Quá trình khám thực thể toàn diện cũng rất quan trọng trong việc đánh giá bệnh nhân. Mức độ tăng của các men gan cũng cung cấp những đầu mối quan trọng để tìm ra nguyên nhân của bệnh gan. Chẳng hạn như phần lớn các bệnh nhân bị bệnh gan do rượu có nồng độ men gan không cao bằng những bệnh nhân bị viêm gan siêu vi cấp tính và nồng độ AST có khuynh hướng cao hơn ALT. Do đó, ở những bệnh gan do rượu, AST thường dưới 300 đơn vị/lít trong khi ALT thường dưới 100 đơn vị/lít. Nếu rượu hoặc thuốc là thủ phạm gây bất thường men gan, ngừng rượu và thuốc (dưới sự giám sát của bác sĩ) có thể làm men gan trở lại bình thường hoặc gần bình thường trong vài tuần đến vài tháng.

Nếu béo phì được xem là nguyên nhân làm gan nhiễm mỡ, giảm cân xuống 5% đến 10% trọng lượng cơ thể có thể đưa men gan về mức bình thường hoặc gần bình thường. Nếu men gan tiếp tục bất thường, bất kể bệnh nhân đã kiêng rượu, giảm cân và ngừng một số loại thuốc nghi ngờ, có thể cần thực hiện xét nghiệm máu để giúp chẩn đoán một số bệnh gan có thể chữa được. Máu có thể được khảo sát để tìm sự hiện diện của virus gây viêm gan B và C và những kháng thể liên quan của chúng. Nồng độ sắt, sắt bão hòa và ferritin trong máu thường tăng ở những bệnh nhân bị bệnh đái tháo đồng đen. Nồng độ trong máu của một chất có tên là ceruloplasmin thường giảm ở những bệnh nhân bị bệnhWilson. Nồng độ của một số kháng thể trong máu (kháng thể kháng nhân hoặc ÂN, kháng thể kháng cơ trơn, và kháng thể kháng tiêu thể thận và gan) tăng ở những bệnh nhân bị viêm gan tự miễn. Siêu âm và CT scan bụng đôi khi cũng được sử dụng để loại trừ u gan và một số bệnh khác như sỏi mật hoặc tắc ống mật do u.

Sinh thiết gan là một thủ thuật đâm kim xuyên qua da ở vùng bụng trên bên phải để lấy ra một dải mô gan mỏng rồi khảo sát dưới kính hiển vi. Thủ thuật này đôi khi được thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm để xác định vị trí của gan. Không phải bất cứ ai có men gan bất thường cũng đều cần phải sinh thiết gan. Bác sĩ thường sẽ xem xét thực hiện thủ thuật này nếu: -Thông tin thu thập được từ sinh thiết gan có thể giúp ích cho kế hoạch điều trị. – Bác sĩ cần biết mức độ lan rộng và mức độ nặng của viêm/tổn thương gan. – Đánh giá hiệu quả điều trị – Không tìm thấy nguyên nhân gây tăng men gan sau khi đã kiểm tra toàn diện Sinh thiết gan có ích nhất, khi cần xác định chẩn đoán những bệnh có khả năng điều trị được. Những bệnh gan có khả năng điều trị được bao gồm viêm gan siêu vi B và C mạn tính, đái tháo đồng đen, bệnhWilson, viêm gan tự miễn và thiếu men alpha-1-antitrypsin.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét